
Đề tài nghiên cứu đã sử dụng kỹ thuật tách được 2.783 tập đoàn san hô cứng để phục vụ cho việc trồng phục hồi và thiết lập vườn ươm san hô. Qua đó, đã tuyển chọn 11 được loài san hô thuộc 4 giống: Acropora (có 5 loài: A. accuminata; A. cytherea; A. hyacinthus; A.nobilis; A. robusta); Echinopora (có 2 loài: E. gemmacea; E. lamellose); Montipora (có 2 loài: M. vietnamensis; M. crassituberculata); Pachyseric (có 2 loài: P. rugosa; P. speciosa).
Kết quả sau gần 2 năm triển khai thực hiện, Đề tài đã ghi nhận được tỷ lệ sống của các tập đoàn san hô được tách và trồng phục hồi bình quân là 79,85%, trong đó tỷ lệ sống cao nhất là khu vực Bãi Bò (99,15%), kế đến là Bãi Nần (95,09%), Bãi Tra (72,23%) và Bãi Bắc (52,94%); tỷ lệ sống bình quân của các giống san hô cứng đã nghiên cứu thực nghiệm trên 4 địa điểm (Bãi Bắc, Bãi Tra, Bãi Nần, Bãi Bò) với giống Montipora (80,8%), Acopora (83,46%), Pachyseric (80,95%) và Echinopora (50,9%); Tốc độ tăng trưởng trung bình của san hô ở các khu vực nghiên cứu: Bãi Bắc (2,36 cm/năm), bãi Nần (5,99 cm/năm), bãi Tra (0,38 cm/năm) và bãi Bò (3,6 cm/năm).
Bên cạnh những kết quả trên, nhóm nghiên cứu còn ghi nhận được khả năng thích nghi môi trường của một số giống san hô trong khu vực nghiên cứu. Cụ thể, để trồng phục hồi san hô nên chọn các giống san hô: Acropora, Montipora và Pachyseric. Các loài san hô thuộc giống Acropora có khả năng chịu đựng sự ngọt hóa tức thời cao hơn các loài san hô thuộc dạng phiến (Montipora, Echinopora, Pachyseric) và các giống san hô thuộc dạng phiến có khả năng thích ứng với trầm tích cao hơn các giống san hô thuộc dạng cành (Acropora).
Thành công của Đề tài nghiên cứu trên có ý nghĩa quan trọng, giúp các cán bộ khoa học của KBTB Cù Lao Chàm xây dựng kế hoạch và quy trình mô hình phục hồi một số loài san hô cứng tại các rạn san hô bị tác động bởi các yếu tố tự nhiên trong điều kiện biến đổi khí hậu, cũng như những tác động của con người gây ra trong KBTB trong thời gian tới. Đây cũng là cơ sở để Ban quản lý KBTB Cù Lao Chàm phối hợp, hướng dẫn cho doanh nghiệp và cộng đồng tham gia xây dựng mô hình rạn san hô nhân tạo để phát triển các loại hình dịch vụ du lịch sinh thái biển trên cơ sở bảo tồn và tôn tạo, phát triển rạn san hô tại địa phương.
Có thể nói, đây là một nghiên cứu thực nghiệm điển hình về bảo tồn tài nguyên đa dạng sinh học biển nói chung và các loài san hô nói riêng. Trên cơ sở đó, có thể nhân rộng mô hình sang các KBTB khác trên cả nước, góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý, bảo tồn và phát triển TN&MT biển của nước ta.